Thứ Năm, 20 tháng 10, 2011

Dấu chỉ thời đại



Thiên Chúa ngày nay không hiện ra trực tiếp để nói, để dạy dỗ giáo huấn con người, nhưng những thông điệp và ý muốn  của Ngài được tỏ lộ qua các dấu chỉ của thời đại. Tin mừng nói đến những kinh nghiệm của người Do Thái: Khi thấy mây từ biển Địa Trung Hải ("mây kéo lên ở phía tây), thì người ta biết được mưa sắp đến; khi thấy luồn gió từ phương nam thổi đến (Gió nóng vùng Ả Rập), thì người ta biết tiết trời sẽ oi bức. Việt nam chúng ta cũng có những kinh nghiệm như thế: Gió đàng đông vác giồng mà chạy... ; Ráng vàng thì gió, ráng đỏ thì mưa; trăng cuồng thì hạn ... 


Con người rất nhạy bén với những dấu chỉ đó, nhưng còn những dấu chỉ khác thì con người, vô tình hay hữu ý, thiếu đi sự nhạy bén, nếu không nói là hờ hững. Nhật báo Quảng Châu đưa tin một bé gái bị xe tải tông nằm bên đường, vậy mà 18 người đi qua không hề cứu giúp, mặc em bé khóc thét vì đau đớn. Cuối cùng chỉ có người nhặt rác đến nâng bé dậy.  Và việc làm đó đã gây ra cho bà nhiều sự chế giễu ... (xem thêm từ http://vn.news.yahoo.com/ng%C6%B0%E1%BB%9Di-ph%E1%BB%A5-n%E1%BB%AF-c%E1%BB%A9u-b%C3%A9-duy%E1%BB%87t-duy%E1%BB%87t-b%E1%BB%8F-050300618.html).
Sự kiện đó nói lên tâm hồn con người thời đại ngày nay hình như chai đá hơn, ích lỷ hơn, sợ rắc rối cho mình. Và nói lên một sự suy thoái đạo đức, một nền giáo dục cần phải nhìn lại. Những lụt lội, giông bão, những bạo hành học đường, bạo hành gia đình, quan tham, mãi lộ giao thông, căn bệnh thế kỷ... là những dấu chỉ Thiên Chúa gởi đến mời gọi con người cần phải chăm lo xây dựng trái đất, sống yêu thương, sống đúng theo lương tâm, tôn trọng nền luân lý một vợ một chồng...
 
Những dấu hiệu hướng ngoại, chạy theo danh vọng tiền tài, quyền lực của một số người cũng là lời mời gọi để người sống đời thánh hiến biết mở to mắt để nhìn lại, mở lớn tai để nghe, hầu biết vun đắp, xây dựng đời sống nội tâm, gắn kết với lối sống mà Đức Giêsu đã muốn nơi họ.

Thứ Tư, 19 tháng 10, 2011

Thằng Súc Sinh

Từ trên giàn giá cao 2 thanh niên bước xuống, cầm theo 2 tấm ván để tải gạch. Một anh vạm vỡ khỏe mạnh, độ 20 tuổi, còn cậu kia thì bé hơn nhiều. Vừa xuống đến sân, cậu bé hỏi ngay: “Anh Long, hình như anh có vẻ mệt?”. Người thanh niên tên Long trả lời nhát gừng: “À, tại tao hơi đau lưng, lại thêm cái chứng nhức đầu!” Cậu bé liền ân cần nói: “Thôi, vậy anh nghỉ đi, để em làm thay cho...”
Long thấy lời nói dối của mình hiệu nghiệm, anh ta khoái trá ngồi xuống xem thằng bé gầy gò yếu ớt ấy sẽ xoay trở thế nào. Anh ta không khỏi ngạc nhiên thầm nghĩ: "Cái thằng lạ thật! Đã mấy lần mình bạt tai ăn hiếp nó, vậy mà cái lúc mình suýt chết đuối trên sông, nó lại liều mạng cứu mình, ai cũng tưởng nó đi đứt vì sặc nước. Lại còn chuyện mình đã ăn cắp tiền, ai cũng nghĩ nó lấy nên bắt nhốt nó hai tuần liền, vậy mà khi thả ra, nó chỉ nói nhỏ với mình là nó sẽ không tố giác mình, chỉ vì sợ mẹ mình biết thì sẽ đau khổ lắm... Thế rồi vì thế mà nó bị bị sa thải suốt 6 tháng, thiếu thốn khổ sở quá chừng. Vậy mà, bây giờ nó vẫn cứ tự nhiên với mình. Hôm nay, mình giả vờ bệnh, nó lại còn gánh thay cho mình nữa chứ! Thật không thể hiểu nổi cái thằng này!"
Đang lúc Long ngồi chơi nghĩ vẩn vơ thì cậu bé phải khó nhọc lắm mới xốc được lên lưng số gạch gần như nhiều gấp đôi. Nó từ từ bước lên giàn xây dựng. Long nhìn theo với ánh mắt láu lỉnh vì đã gạt được thằng bé. Bất chợt, có tiếng người đốc công nóng nảy quát: “Gạch đâu? Sao chưa thấy thằng nào mang lên thế này?”
Cậu bé nghe vậy thì gắng bước nhanh hơn. Thế nhưng, tấm ván tải gạch quá nặng, mà sức nó thì có là bao, từ sáng đến giờ lại chẳng bỏ bụng hạt cơm nào. Nó chợt thấy lảo đảo, mắt hoa đi, hai chân gần như khuỵu xuống... Ở dưới, nhìn thấy thế, Long hét lên:
 “Trời ơi! Thằng-Súc-Sinh!” Vâng, chính cậu bé ấy tên là “Thằng-Súc-Sinh”, nó đã ngã nhào từ tầng nhà thứ hai xuống, đống gạch đè chụp lên. Các công nhân chạy ào lại, bới đống gạch ra thì thấy cậu bé thân thể bị giập nát đẫm máu, chỉ còn thoi thóp!
Có người vội chạy đi mời Cha Sở. Khi ngài đến, Thằng-Súc-Sinh mở mắt đăm đăm, hết nhìn ngài lại nhìn Long, thều thào: “Thưa cha, cái gai thứ 14, anh Long ơi... cái gai cuối cùng!”
Một khoảnh khắc trôi qua, Long òa khóc: “Chúa ơi, Thằng-Súc-Sinh nó chết rồi!” Cha Sở lặng lẽ làm dấu Thánh Giá trên trán thằng bé, rồi cởi khuy áo nó để lấy cỗ tràng hạt nó đeo ở cổ, cuộn vào hai bàn tay trầy trụa rướm máu của nó.
Ngài chợt bắt gặp một chiếc túi vải nhỏ thêu đính vào mặt trong áo. Và ngài nhẹ tay mở ra và thấy có một tờ giấy đôi đã cũ có một hình Trái Tim Chúa Giê-su với 14 cái gai, có lẽ do thằng bé đã cố gắng vẽ thật nắn nót, những cái gai đã lần lượt bị vụng về tẩy xóa đi, chỉ còn lại có một cái.
Bên cạnh lại có thêm một hình trái tim nhỏ hơn, với nét chữ nguệch ngoạc: trái tim của Súc-Sinh, với 13 cái gai hình như đã được vẽ thêm dần dần trong nhiều lần với mầu mực khác nhau.
Phía dưới có hàng chữ: Ngày tôi được Rước Lễ Lần Đầu, tôi đã hứa với Chúa Giê-su rằng: tôi sẽ lần lượt rút hết những cái gai đâm vào trái tim của Người, để ghim thay vào trái tim tôi!
Còn bên trang kia của tờ giấy thì đầy nghẹt những hàng chữ li ti, chỉ còn lại hàng cuối cùng để trống:
• Gai thứ nhất: Con đã hết cứng đầu, không cãi lời dì con nữa.
• Gai thứ hai: Con đã chịu nhịn đói 3 ngày vì bị phạt oan.
• Gai thứ ba: Lần đầu con đã làm ra tiền, con đã dùng để xin lễ cầu cho dì con mới qua đời.
• Gai thứ tư: Con đã nhịn không mua nước đá để uống cho đã khát.
• Gai thứ năm: Con mua một bó hoa đẹp từ chỗ tiền dành dụm để đến thăm mộ dì con.
• Gai thứ sáu: Con đã chịu một trận đòn vì dám bênh vực một thằng bé tật nguyền bị đám trẻ trong xóm ăn hiếp.
• Gai thứ bảy: Mỗi ngày con gánh nước giúp cho một cụ già yếu đau ở cuối xóm.
• Gai thứ tám: Con đã xin vào học Lớp Tình Thương nhưng ông chủ không cho, lại còn đánh mắng con.
• Gai thứ chín: Con đã đến chăm sóc và kịp rửa tội cho bà cụ già ở cuối xóm trước khi bà ấy mất.
• Gai thứ mười: Anh Long suýt chết đuối, con đã nhảy xuống sông cứu được anh ấy mặc dù con không biết bơi.
• Gai thứ mười một: Con có nhặt được một con chó hoang đói lả ngoài đường. Nuôi nó đến nay gần một năm, thì ông chủ bắt đem làm thịt để nhậu với đám thợ.
• Gai thứ mười hai: Con bị nhốt oan 2 tuần vì muốn nhận tội thay cho anh Long để mẹ anh ấy không phải đau khổ vì biết anh ấy đã ăn cắp tiền.
• Gai thứ mười ba: Con đành chịu nhận phần lương thiệt thòi, dù người ta đồn rằng ông chủ đã bóc lột con.
• Gai thứ mười bốn: ...
Cha Sở ngậm ngùi khóc, không cần ai phải giải thích về tờ giấy đôi ấy nữa. Cậu bé bị quen gọi là “Thằng-Súc-Sinh” vẫn nằm đó, nước da tái nhợt nhưng khuôn mặt thì rạng rỡ, dường như đang mỉm cười mãn nguyện. Cha Sở nhận ra Trái Tim Chúa Giê-su giờ đây không còn một chiếc gai nào đâm thâu nữa. “Thằng-Súc-Sinh” đã lấy tình yêu để trả giá bằng một đời sống đau khổ tủi nhục, bằng từng cái gai, bằng từng giọt nước mắt!
Nhưng, tại sao một cậu bé như thế lại mang một cái tên nguyền rủa phỉ báng như thế nhỉ? Bố mẹ thằng bé đã cùng bị tai nạn chết khi em vừa tròn 2 tuổi, em bơ vơ không nhà như con chim non bị ném ra ngoài tổ ấm. Có một người đàn bà góa không con đã nhận em về nuôi một cách tận tâm.
Thế nhưng, một chuyện đáng tiếc xảy ra đã làm thay đổi hẳn mối quan hệ tốt đẹp ấy. Thằng bé vốn rất thích ngửi hoa thơm. Trên cửa sổ căn phòng của bà có một chiếc bình hoa quý vừa đẹp vừa thơm. Một hôm, thằng bé hiếu kỳ đã trèo lên một cái ghế đẩu để cố với tới gần mà ngửi đóa hoa vừa nở. 
Chiếc ghế nghiêng đổ, thằng bé ngã nhào, níu lấy bình hoa. Bà dì nuôi nghe tiếng đổ vỡ, chạy vào, đứng lặng người trước cảnh ấy. Bà tiếc chiếc bình hoa đến nỗi không kịp nghĩ đến đứa con nuôi 6 tuổi đang nằm dưới đất, khóc thét lên vì sợ hãi và đau đớn. Bà chạy đến, túm lấy tóc thằng bé, vừa đánh tụi bụi vừa chửi rủa: “Quân mất dạy! Đồ súc sinh! Mày đúng là Thằng-Súc-Sinh!”
Từ ngày đó, chẳng ai trong xóm còn biết hoặc nhớ đến thằng bé có một cái tên nào khác ngào 3 chữ “Thằng-Súc-Sinh”. Thằng bé buồn tủi ghê lắm, vừa sợ bà dì đánh mắng, lại vừa âm thầm phẫn uất, nó trở nên bướng bỉnh ngang ngược. Cũng do vậy, nó lại càng bị đòn dữ tợn và thường xuyên hơn. Nó thù ghét mọi người nên tìm mọi cách tai ác để khiến ai cũng phải tức giận về nó.
Ở trường, nơi nó được học vỏn vẹn có một năm, thì Thằng-Súc-Sinh là một gánh nặng cho các thầy cô giáo. Tống nó khỏi cửa lớp, nó lại trèo cửa sổ nhảy tọt vào trong. Hầu như nó không chịu học hành gì cả. Nó có chịu ngồi yên cũng chỉ là để vẽ nguệch ngoạc dọc ngang khắp các trang sách và trên mặt bàn.
Dĩ nhiên, Thằng-Súc-Sinh cũng không vắng mặt ở lớp Giáo Lý. Khổ nỗi, nó có đến lớp cũng chỉ cốt để phá phách không cho bạn cùng lứa có thể ngồi yên mà học hành kinh bổn. Cha Sở đã làm đủ mọi cách để dạy dỗ nó mà không xong, cuối cùng thì Ngài đành lờ đi, kệ cho nó muốn làm gì thì làm, coi như không có nó hiện diện...
Nhưng rồi đến cuối niên khóa Giáo Lý năm ngoái, một buổi tối, Cha Sở đọc danh sách các em được Xưng Tội và Rước Lễ Lần Đầu. Đương nhiên là không thể có tên Thằng-Súc-Sinh! Khi Ngài bước ra khỏi lớp, nó đã chạy vòng ra đứng chặn trò chơi mặt Ngài mà hỏi bằng một giọng cương quyết: “Thưa Cha, tại sao con lại không có tên?”
Cha Sở bất giác nhìn đăm đăm thằng bé bất hạnh, rồi không hiểu vì sao ngài lại mỉm cười khoan dung: “Được, con cũng sẽ được Xưng Tội và Rước Lễ Lần Đầu!” Không kịp nghe hết câu, Thằng-Súc-Sinh đã bỏ chạy như bay ra khỏi nhà xứ. Nó băng mình đến cánh đồng cỏ hoang ngoài rìa làng, lăn mình nằm dài trên thảm cỏ đã bắt đầu đẫm ướt sương đêm, dõi mắt nhìn bầu trời đầy sao, mãi cho đến khuya mới lững thững về nhà.
Hôm sau, trước khi cho phép Thằng-Súc-Sinh đi xưng tội, dì nuôi nó nghĩ rằng phải có bổn phận dạy dỗ khuyên bảo nó vài lời. Bà bảo nó mà mắt nhìn đi chỗ khác: “Thằng-Súc-Sinh, mày phải nhớ: từ nay lo mà đổi tính sửa nết nghe chưa? Mày không đùa được với Chúa đâu!” Và sau đó, người ta ngạc nhiên thấy Thằng-Súc-Sinh xưng tội rất lâu với Cha Sở. Thiên Chúa đã lắng nghe những nỗi lòng bí ẩn của đứa bé bị cuộc đời ruồng bỏ...
Tới ngày Rước Lễ Lần Đầu, Cha Sở khuyên nhủ chung cả lớp Giáo Lý rằng từ đây các em phải nhớ cố gắng sống cho dễ thương ngoan ngoãn, làm nhiều việc tốt để có thể xoa dịu nỗi đau Thánh Tâm Chúa Giê-su vì những tội lỗi của loài người...
Khi các em đã về hết, Thằng-Súc-Sinh ở lại một mình trong Nhà Thờ. Nó mon men lại gần mẫu ảnh Thánh Tâm Chúa Giê-su, kiễng chân lên chăm chú nhìn thật kỹ mọi chi tiết bức ảnh hồi lâu. Trở về nhà, đang khi những đứa tuổi khác còn mải vui đón bữa tiệc mừng lễ thì Thằng-Súc-Sinh lục tìm một tờ giấy đôi còn mới, một cây bút chì tốt, rồi không nói với ai một lời, nó phóng thẳng ra cánh đồng mọi khi. Chính nơi đó nó đã vẽ hình hai trái tim, một của Chúa, một của nó...
Đến tối, khi trở về nhà, thằng bé đã không còn là Thằng-Súc-Sinh nữa, nhưng là một em bé đã quy hướng trọn vẹn ý chí và tâm hồn non nớt ngây thơ vào Chúa Giê-su. Nó quyết sẽ gỡ cho đến hết những cái gai đang ghim sâu nơi Trái Tim Chúa Giê-su. Đối với bà dì nuôi nó, dẫu sao nó cũng vẫn bị coi là Thằng-Súc-Sinh, thì bà không hề nhận ra sự đổi thay kỳ diệu nơi nó, bà vẫn đánh mắng hành hạ nó như thói quen lâu nay...
Đến mùa thu vừa rồi, bà dì ngã bệnh vì cảm lạnh ngày một trầm trọng. Bà ngạc nhiên vì Thằng-Súc-Sinh vẫn tận tụy ở bên cạnh mà không bỏ rơi hay vắng mặt đến một phút. Một hôm, nước mắt chạy quanh, nó nói với bà: “Dì ơi, con sợ dì sẽ không qua khỏi, mà không có dì thì đời con sẽ ra sao?” Bà chăm chú nhìn nó, vừa cảm động vừa ân hận, bà không thể hiểu nổi thằng bé, nó tỏ ra thật sự thương yêu quyến luyến với bà mặc dù bà chưa bao giờ nói được một lời tử tế với nó. Bà bất chợt ôm ghì đứa bé côi cút vào lòng mà nghẹn ngào: “Con ơi, con là một đứa bé tốt. Con hãy cầu nguyện, xin Chúa nhân từ tha thứ mọi tội lỗi cho dì nhé con!”
Chính lúc này, Thằng-Súc-Sinh nhận ra cuộc đời nó còn rất diễm phúc. Đây là lần đầu tiên dì nó âu yếm trìu mến nó như con đẻ, lại còn khen nó tốt nữa! Cái giây phút ấy xóa tan mọi mặc cảm tủi nhục xót xa trước đây... Khi dì nó qua đời, nó bắt đầu phải sống lang thang, thiếu thốn mọi điều. Nhưng, ý nghĩ hướng về Trái Tim bị thương tích của Chúa Giê-su đã điều khiển mọi hành vi và suy tư của cuộc đời thằng bé.
Và bây giờ, thế là hết, Thằng-Súc-Sinh đã trả giá cho “cái gai cuối cùng” ấy bằng chính cái chết. Thằng bé ra đi hạnh phúc, không ngờ mình đã nên thánh, một vị thánh bé nhỏ hồn nhiên...
Chiều tối hôm tang lễ của Thằng-Súc-Sinh vừa xong, anh thanh niên tên Long đã tới xin gặp riêng Cha Sở, vừa mếu máo vừa thú nhận tất cả, từ chuyện anh ta ăn cắp làm cho Thằng-Súc-Sinh bị bắt oan, cho đến chuyện anh ta giả vờ bệnh để cậu bé phải làm thay. Tâm hồn Long đã mở ra. Chắc chắn ở trên Nước Trời, Thằng-Súc-Sinh đã cầu nguyện cho Long trước hết. Long đã đền bồi lại những lỗi lầm đã phạm. Long bắt đầu một cuộc sống mới. Anh ra về trong niềm hân hoan và biết ơn người bạn bé nhỏ...
Cha Sở lấy bút ghi thật trân trọng vào hàng kẻ thứ mười bốn:Để gánh đỡ cho anh Long, con đã tự nguyện mang lượng gạch nhiều gấp đôi, và con đã chết vì tai nạn!
Vài ngày sau, người ta thấy trên bàn viết của Cha Sở một khung ảnh bằng kính, lồng trong đó là tờ giấy đôi mở rộng của Thằng-Súc-Sinh với hàng chữ ghi chú bên dưới: Đây là Giao Ước của Thằng-Súc-Sinh với Thánh Tâm Chúa Giê-su”.
Vâng, cậu bé đã trở nên một bài giảng thuyết sống động, hùng hồn và sâu xa nhất mà tâm hồn vị Linh Mục già cũng như tất cả mọi người hiểu biết đầu đuôi câu chuyện phải lắng nghe và ghi nhớ đến trọn đời...
Phỏng theo một truyện ngắn của Ba-lan (mehangcuugiup.org)

Thứ Hai, 17 tháng 10, 2011

Người môn đệ

Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. Ðừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: ‘Bình an cho nhà này!’ Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ đến đậu trên người ấy; bằng không, thì bình an đó sẽ quay về với anh em. Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Ðừng đi hết nhà nọ đến nhà kia... (Lc 10,1-9)

Người môn đệ của Giêsu phải là người thanh thoát, không dính bén những của cải vật chất trần gian, cũng như những tình cảm chóng qua có thể gặp trên đường loan báo Tin mừng. "Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường..." nhưng hãy luôn nở trên môi nụ cười và mang trong tim tình thương yêu của Giêsu, để khi gặp bất cứ ai, hay ngụ lại bất cứ nhà nào thì hãy chúc lành cho họ: "Bình an cho nhà này!". Một tâm hồn thanh thoát, tự do, không la cà "hết nhà nọ đến nhà kia", vì điều đó sẽ cản trở và làm chậm bước đi của người môn đệ trên hành trình loan báo Tin mừng, làm chứng cho Chúa giữa cuộc trần này.
Người môn đệ là người luôn có trái tim nhân hậu, luôn có một tâm hồn nhạy cảm trước những nỗi khổ đau của người nghèo - nghèo về của cải, nghèo về sức khoẻ, nghèo về tâm linh và nghèo về phẩm giá. Vì thế, như Luca luôn nhắc đến một Giêsu giàu lòng thương xót, hay cứu giúp kẻ cô thế cô thân, thì người môn đệ cũng hãy tiếp nối bước chân của Thầy mình để đến với người nghèo, mang tình thương, sự tha thứ và niềm vui đến với họ...

Hồi Tâm

Thứ Tư, 28 tháng 9, 2011

Tổng lãnh Thiên Thần

Thiên thần của Thiên Chúa (Ga 1,47-51) - Thứ năm ngày 29/9 TNA
Hôm nay Giáo hội mừng kính các tướng lĩnh của Thiên Chúa: Tổng lãnh Thiên thần Micaen – Gabrien – Raphaen thống lĩnh toàn bộ các cơ binh trên trời. Vậy các thiên thần là loài nào ? Và làm sao để có thể nhận biết, và như Giacóp, mơ thấy “các thiên thần lên lên xuống xuống” trên một cái thang chạm tới trời (St 28,12)? Hay làm thế nào để cũng được Chúa hứa rằng “các anh sẽ thấy các thiên thần lên lên xuống xuống trên Con Người” (c. 51).
Các thiên thần là những loài thụ tạo nhưng không hữu hình như con người. Trong kinh Tin kính nói đến một Thiên Chúa duy nhất dựng nên muôn vật “hữu hình” và “vô hình”. Vì là thụ tạo vô hình, nên các thiên thần cũng có đủ các mối tương quan với Thiên Chúa và với con người là những thụ tạo hữu hình.
Các thiên thần có mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa, luôn chầu chực và sẵn sàng phục vụ Ngài. Trong Cựu Ước, Abraham đã tiếp đón ba vị khách lạ chính là ba thiên thần được Chúa sai đến để báo tin rằng vợ ông, bà Sara tuy già nua lọm khọm nhưng sẽ sinh cho ông một con trai. Trong Tân Ước, Khi Giacaria đang cầu nguyện trước nhan thánh Chúa, thì sứ thần Gabrien đã hiện đến báo tin rằng vợ ông cũng sinh con trai trong lúc tuổi già. Chúng ta cũng có thể gặp thấy “muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa” ngay khi Ngôi Lời nhập thể giáng sinh (Lc 2,13); khi Chúa Giêsu thắng vượt ba cơm cám dỗ trong sa mạc thì có “các thiên thần đến hầu hạ Người” (Mt 4,11); khi Chúa Giêsu sợ hãi trong vườn cây Dầu thì “có thiên sứ tự trời hiện đến tăng sức cho Người” (Lc 22,43) và trước lối phản ứng đầy tính bạo động của môn đệ, Chúa đã nói: “Hãy xỏ gươm vào vỏ… anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp cho Thầy hơn mười hai đạo binh thiên thần !” (Mt 26,52-53). Và các thiên thần còn làm nhiệm vụ loan báo Tin mừng Phục Sinh, cùng với Chúa xét xử thế giới… (x. Lc 24,6; Mt 16,27; Dt 1,4.6).
Bên cạnh đó, các thiên thần cũng rất gần gũi với loài người, vì các ngài được Thiên Chúa sai đến để che chở, phù trợ con người, đó là các thiên thần hộ thủ của mỗi người mà chúng ta sẽ mừng kính trong ngày 2.10 sắp tới. Ở trong sách Tôbia, chúng ta gặp thấy thiên thần Raphaen đã đến để chữa lành đôi mắt mù loà cho ông Tôbít và bà Xara vợ ông khỏi ác quỷ Atmôđai (Tb 3,17); Thiên thần Gabrien thì được Chúa sai đến gặp gỡ Maria để loan báo sự hạ sinh của Đấng Cứu Thế (Lc 1,26). Và biết bao nhiêu câu chuyện về các thiên thần hộ thủ luôn sẵn sàng bênh vực che chở con người mà chúng ta vẫn thường đọc nghe đây đó.
Như thế, các thiên thần, loài thụ tạo vô hình, có tương quan mật thiết với Thiên Chúa và gần gũi với cuộc sống con người. Gần gũi với Thiên Chúa để dâng lên Ngài những nỗi thống khổ của con người. Gần gũi với con người để chuyển giao sứ điệp và ân lộc của Thiên Chúa. Các ngài như là trung gian nối kết giữa Thiên Chúa với loài người, qua Thiên Chúa mà phục vụ con người.  
Các thiên thần gần gũi như thế đó, nhưng con người chúng ta khó có thể gặp thấy thiên thần (chỉ có đàn ông con trai là hay gặp được các thiên thần. Ôi! Thiên thần của lòng anh!... không biết phụ nữa thì có hay gặp không ???) nhưng chúng ta có thể gặp thấy “tâm hồn thiên thần”. Đó là gặp thấy những con người có tâm hồn như Nathanaen mà Tin mừng hôm nay đề cập. Một tâm hồn trong sáng, thanh thản, an bình, thư thái “ngồi dưới gốc cây vả”. Một tâm hồn mà “lòng dạ không có gì gian dối” như Chúa Giêsu đã khen (c.47b). Một tâm hồn trung thực. Một tâm hồn luôn hướng về những sự cao siêu, vượt thoát những sự tầm thường của thế trần. Tâm hồn như thế sẽ thấy được những điều lớn lao, không những sẽ thấy các thiên thần mà còn được nhìn thấy Thiên Chúa. “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8).
Những năm tháng vừa qua chúng ta thường nghe nói đến các sư giả, linh mục giả, tu sĩ giả. Đó là những người đội lốt người khác để lừa lọc người ta. Nói sư giả, linh mục giả hay tu sĩ giả thì rất oan cho họ. Vì họ không phải là nhà sư hay là tu sĩ thực thụ. Họ chỉ là những người bình thường đã giả làm sư, giả làm tu sĩ mà thôi. Nên gọi họ là giả sư, giả cha, giả xơ thì đúng hơn. Gọi thế để phân biệt với các Kitô hữu giả hiệu mà Kinh thánh đã nói đến. Họ chính là những Kitô hữu thực sự nhưng không sống đúng như lối sống của người Kitô, nên trở thành Kitô giả, tu sĩ giả, linh mục giả, chứ không phải là giả tu sĩ hay giả Kitô hữu…
Trong ngày lễ kính các Tổng lãnh Thiên thần hôm nay, ước gì mỗi Kitô hữu (trong mọi bậc sống) sẽ là Kitô hữu đích thực, nghĩa là luôn canh chừng lòng mình khỏi những đam mê ích kỷ, hận thù ghen ghét, biết phấn đấu đạt đến tâm hồn của những thiên thần, là có lòng nhân hậu, yêu mến những sự tốt lành, luôn biết mơ ước đến trời cao, vượt thoát được sự kìm hãm của vật chất, danh vọng, quyền thế, những cái có thể làm tâm hồn trở nên khô héo, chai lì, tầm thường… để khi gặp gỡ Chúa cũng được Chúa khen: Đây đích thực là một Kitô hữu, trong lòng không chút gian dối, sẽ được thấy trời rộng mở và thấy các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người.